Xác định pháp luật điều chỉnh thẩm quyền đại diện doanh nghiệp trong quan hệ quốc tế - Đỗ Văn Đại Theo TC NCLP

Ngày đăng: 16/11/2020
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. Để tồn tại, doanh nghiệp phải có người đại diện. Việc xác định ai là người có thẩm quyền đại diện doanh nghiệp trong giao dịch sẽ tuân theo pháp luật Việt Nam nếu doanh nghiệp đó là doanh nghiệp Việt Nam và giao dịch đó được thực hiện ở Việt Nam.
Tuy nhiên, khi các doanh nghiệp Việt Nam giao dịch với các doanh nghiệp nước ngoài thông qua người đại diện, thì việc xác định ai là người có thẩm quyền đại diện của các doanh nghiệp này để thực hiện một giao dịch lại trở nên phức tạp. Bởi về vấn đề này, pháp luật trong nước và pháp luật nước ngoài quy định không giống nhau. Trong khi đó, thực tiễn pháp lý Việt Nam trong những năm gần đây thường xảy ra những tranh chấp về thẩm quyền đại diện của doanh nghiệp trong quan hệ quốc tế. Vì vậy, trong những trường hợp đó, việc quy định sử dụng pháp luật nước nào để điều chỉnh là cần thiết. Ví dụ:
 
Ngày 28/10/1995, Công ty Kurihara Kogyo được thành lập theo pháp luật Nhật Bản có chi nhánh tại Singapore ký với Công ty HN (là công ty liên doanh) một hợp đồng. Ngày 06/6/1998, Công ty HN ký một hợp đồng thanh toán trong đó thỏa thuận chọn trọng tài Hồng Kông khi các bên có tranh chấp. Người đại diện ký kết của Công ty HN là ông Thành và người đại diện của bên kia là ông Tài. Sau đó, Công ty HN cho rằng "ông Thành - Tổng giám đốc Công ty liên doanh không có quyền ký thỏa thuận trọng tài vì đây là vấn đề xác định vốn Công ty liên doanh nên phải do Hội đồng quản trị Công ty liên doanh quyết định". Công ty HN cũng cho rằng, "ông Tài không đủ thẩm quyền ký hợp đồng thanh toán 06/6/1998 vì ông Tài là Giám đốc Công ty liên doanh Kurihara Thăng Long ký hợp đồng với Công ty liên doanh HN 28/10/1995, rồi lại thay mặt Công ty Kurihara Kogyo Ltd - Chi nhánh Singapore - ký hợp đồng là không đúng quy định của pháp luật"(Xem Quyết định số 01/QĐ ngày 21/9/2001, thụ lý số 01/KTST ngày 18/6/2001 của TAND TP. Hà Nội).
 
Để biết ông Thành và ông Tài có thẩm quyền ký kết giao dịch trên hay không, chúng ta phải xác định pháp luật nước có thẩm quyền giải quyết. Chọn pháp luật nước nào khi ở đây có ba hệ thống pháp luật có thể được sử dụng: pháp luật Nhật Bản, pháp luật Singapore và pháp luật Việt Nam? Pháp luật Việt Nam hiện chưa quy định rõ về vấn đề này. Vì vậy, chúng ta cùng nghiên cứu và tìm hướng giải quyết.
 
Thực trạng pháp luật Việt Nam
 
Thực trạng văn bản
 
Bộ luật Dân sự Việt Nam hiện nay có quy định về xác định pháp luật điều chỉnh năng lực hành vi dân sự của cá nhân (Điều 762) và năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân nước ngoài (Điều 765). Tuy nhiên, cần thấy rằng, năng lực hành vi hay năng lực pháp luật dân sự của cá nhân hay pháp nhân và thẩm quyền đại diện doanh nghiệp là hai vấn đề khác nhau. Năng lực là khả năng của ai đó làm việc gì. Trong khi đó, thẩm quyền là khả năng của một ai đó thay mặt chủ thể khác thực hiện một hành vi pháp lý. Ví dụ, công ty A hoàn toàn có khả năng ký kết một thoả thuận trọng tài nhưng liệu ông B, phó giám đốc của công ty, có thể thay mặt công ty ký một thoả thuận trọng tài hay không lại là vấn đề thẩm quyền của ông B. Ngược lại, ông A là giám đốc một công ty có thể không có năng lực dân sự để ký thỏa thuận trọng tài để giải quyết một số tranh chấp cá nhân của mình, nhưng hoàn toàn có thể ký một thỏa thuận trọng tài với đối tác của công ty trên danh nghĩa là người có thẩm quyền đại diện công ty.
 
Bộ luật Dân sự Việt Nam cũng đã có các quy định về xác định pháp luật áp dụng điều chỉnh năng lực pháp luật dân sự nhưng chưa có các quy định về vấn đề thẩm quyền. Luật Doanh nghiệp năm 2005 có những quy định về pháp luật áp dụng và quốc tịch của doanh nghiệp (Điều 3, 4) nhưng cũng không cho biết là pháp luật nước nào sẽ được chọn để điều chỉnh thẩm quyền đại diện doanh nghiệp trong quan hệ quốc tế. Như vậy, pháp luật Việt Nam hiện chưa quy định cụ thể, rõ ràng về việc xác định pháp luật điều chỉnh thẩm quyền đại diện của doanh nghiệp trong quan hệ có yếu tố nước ngoài.
 
Thực tiễn pháp lý
 
 Thực tiễn pháp lý Việt Nam có hai xu hướng xác định pháp luật áp dụng về thẩm quyền đại diện doanh nghiệp.
 
Xu hướng thứ nhất là xác định thẩm quyền thông qua nghiên cứu một hệ thống pháp luật (pháp luật một nước). Ví dụ, tại Quyết định số 51/KTPT ngày 26/10/2001, Toà phúc thẩm TANDTC tại TP. Hồ Chí Minh có nhận xét: "Hợp đồng mua bán mà Công ty Recofi (Pháp) và Công ty Sunimex (Việt Nam) có quy định tại Điều 11 là việc thoả thuận chọn Trọng tài thuộc Phòng thương mại quốc tế Paris là không chặt chẽ theo điều lệ mẫu quy định. Do đó, khi phát sinh tranh chấp; quan điểm của mỗi bên hoàn toàn khác biệt nhau, không giải quyết thân thiện với nhau được theo nội dung của hợp đồng, mà phải ký thêm các điều kiện thoả thuận về việc chọn Trọng tài. Ngày 15/8/1998, các bên tiến hành ký kết các thể thức tham chiếu ICC vụ kiện số 9677/AC/DG. Phía Sunimex do ông Minh làm đại diện. Nhưng ở thời điểm này, ông Minh chỉ giữ chức vụ Phó Tổng giám đốc Tổng công ty Sunimex theo quyết định của UBND TP. Hồ Chí Minh. Việc ông Minh tham gia ký đã không đủ tư cách là người đại diện hợp pháp để thoả thuận thể thức tham chiếu ICC ngày 15/8/1988 theo quy định của pháp luật Việt Nam, đã vi phạm Khoản 1, Khoản 2, Điều 102 Bộ luật Dân sự, Điều 37 Luật Doanh nghiệp nhà nước và trái với Điều 19 Điều lệ hoạt động của Tổng công ty Sunimex".
 
Ví dụ trên cho thấy, tòa án Việt Nam đã sử dụng pháp luật Việt Nam để cho rằng, ông Minh là người không có thẩm quyền đại diện công ty Sunimex trong giao dịch với Công ty Recofi, bởi lẽ, ông Minh chỉ là Phó Tổng Giám đốc Sunimex.
TIN TỨC LIÊN QUAN

Danh mục chính

Tin tức nổi bật

Thống kê truy cập

Đang xem: 11 lượt

Tổng số đã xem: 1428560 lượt

090 574 6666