Các loại hình tố tụng hình sự và hướng áp dụng ở Việt Nam - TS Nguyễn Quang Hiền - Toà án nhân dân TP. Hồ Chí Minh

Ngày đăng: 16/11/2020
Theo Nghị quyết số 31/2009/NQ-QH 12 ngày 17/6/2009 về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2010 và bổ sung chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XII (2007-2011) thì Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) sẽ được sửa đổi. Như vậy, hiện nay, việc sửa đổi, bổ sung BLTTHS đã được đặt ra. Vì vậy, việc nghiên cứu các loại hình tố tụng hình sự (TTHS) để hoàn thiện pháp luật về TTHS là một công việc cần thiết.
1. Các loại hình tố tụng hình sự
Loại hình TTHS là cách thức thể hiện, biểu hiện cũng như cách thức tiến hành các hoạt động tố tụng. Trong lịch sử và hiện tại đã và đang tồn tại bốn loại hình TTHS cơ bản sau:
1.1. Tố tụng tố cáo
Đây là loại hình tố tụng được hình thành từ thời kỳ chiếm hữu nô lệ, nhưng tồn tại và phát triển cực thịnh trong thời kỳ đầu của xã hội phong kiến. Nét đặc trưng của tố tụng tố cáo là sự công nhận vị trí đặc biệt của người buộc tội - thường là người bị tội phạm xâm hại hay còn gọi là người bị hại. Việc khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự cũng như tiến hành hay chấm dứt các hoạt động tố tụng phụ thuộc vào ý chí của người buộc tội nên gọi là tư tố. Sau này, thực tiễn cho thấy hành vi phạm tội không chỉ xâm hại đến lợi ích cá nhân người bị hại, mà còn gây thiệt hại cho cả xã hội và nhà vua. Mặt khác, để hạn chế tình trạng lợi dụng quyền tố cáo gây thiệt hại đến tính mạng, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người khác, loại hình tố tụng tố cáo đòi hỏi khi tố cáo tội phạm với nhà chức trách, người tố cáo phải tuyên thệ; nếu người bị tố cáo không phạm tội, người tố cáo có thể bị xử phạt. Điều này đã làm cho việc tố cáo của người bị hại giảm dần. Dần dần, trong loại hình tố tụng tố cáo, chủ thể buộc tội là cá nhân (người bị hại) được chuyển giao cho người đại diện lợi ích của nhà vua nên tư tố chuyển sang công tố.
 
Chủ thể thực hiện chức năng bào chữa chính là người bị buộc tội. Hơn nữa, mọi người đều có thể tham gia nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của người bị buộc tội nên thời kỳ này đã xuất hiện một số người được gọi là hiệp sỹ có điều kiện và khả năng tự nguyện đứng ra bảo vệ cho người bị buộc tội. Đó chính là những người thân, bạn bè của người bị buộc tội. Bào chữa ở đây thực chất chỉ là việc thể hiện tài năng, không vụ lợi và mang ý nghĩa cao cả nhằm bảo vệ người bị buộc tội.
 
Chủ thể thực hiện chức năng xét xử không có sự thống nhất, ở các thời điểm khác nhau thì cơ quan xét xử cũng được quy định khác nhau. Các Tổng đốc, Đại công, Tri châu, Quan tài phán, Quan toà, Quan thu thuế kiêm cảnh sát cũng đóng vai trò là người xét xử. Hệ thống chứng cứ được quy định đơn giản, mang nặng tính chất mê tín, tôn giáo, định kiến và áp đặt. Sự nhận tội của người bị buộc tội được coi là chứng cứ quan trọng nhất, là chứng cứ vua. Trường hợp không có sự nhận tội của người bị buộc tội thì có thể sử dụng các nguồn khác để chứng minh như lời thề hoặc phán xét theo ý trời hoặc các thử thách khác. Như vậy, với một hệ thống chứng cứ được quy định, tòa án không cần biết sự việc đã xảy ra như thế nào mà chỉ quan tâm đến khả năng chịu đựng thử thách của người bị buộc tội hay họ cần phải thề như thế nào. Đây là loại hình tố tụng cổ xưa nhất và được hầu hết các nước sử dụng trong những thời điểm khác nhau.
 
1.2. Tố tụng xét hỏi
 
Đây là loại hình tố tụng cũng xuất hiện vào thời kỳ chiếm hữu nô lệ§, trong các tòa án tôn giáo và dần dần thâm nhập vào tòa án thường. Loại hình tố tụng này phát triển phổ biến vào thời kỳ chế độ quân chủ, phát triển mạnh nhất ở thời kỳ trung cổ. Tố tụng xét hỏi ra đời từ những nguyên nhân sau: thứ nhất, từ yêu cầu tăng cường quyền lực công; thứ hai, do tình hình tội phạm tăng; thứ ba, do thái độ thờ ơ, vô trách nhiệm của quyền lực công đối với các quyền của con người. 
 
Đặc điểm của tố tụng xét hỏi là hoạt động tố tụng được tiến hành bí mật và bằng văn bản. Trong tố tụng xét hỏi, các cơ quan có thẩm quyền dùng nghiệp vụ điều tra để xác định hành vi phạm tội của người bị buộc tội, nên không thể công khai rộng rãi, nhất là đối với người bị buộc tội. Tuy nhiên, để có cơ sở làm chứng cứ chứng minh thì cơ quan tiến hành tố tụng phải lập thành văn bản. Các hoạt động tố tụng không được phân biệt rõ ràng và được thể hiện ở những mức độ khác nhau. Đặc biệt, các cơ quan, tổ chức thực hiện chức năng tố tụng không được xác định cụ thể mà hầu như tập trung vào toà án. Người bị hại không có chức năng buộc tội mà thay vào đó là người thuộc các cơ quan, tổ chức thực hiện chức năng tố tụng. Người bị buộc tội bị hạn chế quyền bào chữa, họ không phải là một chủ thể trong quan hệ tố tụng mà chỉ là khách thể của quan hệ tố tụng. Thẩm phán không chỉ thực hiện chức năng xét xử mà còn thực hiện cả chức năng điều tra, chức năng buộc tội và có cả một phần của chức năng bào chữa.
 
Nguyên tắc cơ bản của loại hình tố tụng này là suy đoán có tội đối với người bị buộc tội. Nguyên tắc bí mật và bằng văn bản được áp dụng trong suốt quá trình giải quyết vụ án, hạn chế đến mức tối đa việc khiếu nại các bản án. Nguyên tắc sử dụng việc thừa nhận lỗi của người bị buộc tội là chứng cứ quyết định của vụ án.
TIN TỨC LIÊN QUAN

Danh mục chính

Tin tức nổi bật

Thống kê truy cập

Đang xem: 15 lượt

Tổng số đã xem: 1544741 lượt

090 574 6666