Một số khía cạnh pháp lý về mô hình tập đoàn tài chính - ngân hàng, ThS Bùi Thanh Lam, Hà Nội
Ngày đăng: 16/11/2020
Hiện nay, có rất nhiều khái niệm khác nhau về Tập đoàn kinh tế được sử dụng đối với một loại hình, quy mô, lĩnh vực, địa bàn hoạt động khác nhau nhằm chỉ sự liên kết...
1. Khái quát chung về tập đoàn kinh tế
1.1. Quan điểm về tập đoàn kinh tế trên thế giới
Hiện nay, có rất nhiều khái niệm khác nhau về Tập đoàn kinh tế được sử dụng đối với một loại hình, quy mô, lĩnh vực, địa bàn hoạt động khác nhau nhằm chỉ sự liên kết như Cartel (liên hiệp các doanh nghiệp có mối quan hệ chặt chẽ để kiểm soát giá - nôm na gọi là Hội buôn)(1); Group (Nhóm doanh nghiệp); Consortium (Tổ hợp)(2); hoặc theo cấu trúc vốn, hình thức của nhóm công ty như Stock corporations (Công ty - Công ty cổ phần); General corporations (Tập đoàn công ty cổ phần); hoặc tập đoàn kinh doanh chuyên sâu như tập đoàn dầu khí, tập đoàn tài chính - ngân hàng, tập đoàn truyền thông; hoặc theo phạm vi hoạt động có thể được gọi là tập đoàn đa quốc gia nếu tập đoàn đó có cơ sở kinh doanh ở các quốc gia khác; hoặc các doanh nghiệp có thể dựa trên cơ sở liên kết kiểu gia đình như dạng Family Business (như của Ford, Cargill, Wall-mart, Motorola,... ở châu Á, các tập đoàn được gọi là Zaibatsu, Keirestu (Nhật), Chaeblols (Tập đoàn kinh tế gia đình của Hàn Quốc)... Tuy có sự khác nhau về thuật ngữ và nội dung chuyển tải, nhưng đa phần các khái niệm được chỉ đến “tập đoàn kinh tế” trên thế giới thì đều được hiểu là một cơ cấu hoặc một tổ hợp các doanh nghiệp có quan hệ với nhau về vốn, quản trị, công nghệ, quản trị, thương hiệu, thị trường, phân phối lợi ích... nhưng trên cơ sở là mỗi một thực thể trong “Tập đoàn” là một thực thể pháp lý độc lập và hoàn toàn có tư cách pháp nhân riêng biệt. Mối quan hệ này chủ yếu dựa trên nhiều yếu tố khác nhau nhưng trên ba nền tảng của quan hệ là: (i) Sở hữu vốn của Công ty mẹ đối với Công ty con, Công ty cháu hoặc sở hữu vốn của các công ty với nhau trong cùng tập đoàn theo các mức độ khác nhau, có thể kiểm soát, chi phối hoặc góp vốn đầu tư đơn thuần; (ii) Quản trị của Công ty mẹ đối với các Công ty con thông qua việc cử người đại diện phần vốn góp và xây dựng hệ quản trị chung cho cả tập đoàn, theo đó các công ty trong tập đoàn (dù bị chi phối /không chi phối về vốn) cam kết chấp thuận hệ quản trị tập đoàn và tuân thủ theo hệ quản trị tập đoàn để xây dựng giá trị cốt lõi, mục tiêu dài hạn và sứ mệnh của cả tập đoàn; (iii) Quan hệ về thương hiệu thể hiện khá rõ nét khi các công ty trong tập đoàn sử dụng /được phép sử dụng chung thương hiệu của công ty mẹ, thương hiệu tập đoàn. Do đó, quyết định của công ty mẹ đối với các công ty trong tập đoàn (thường ám chỉ chung là quyết định của tập đoàn) không chỉ đơn thuần dựa vào “lá phiếu” biểu quyết mà còn thông qua các hình thức khác như Bộ Nguyên tắc quản trị tập đoàn, các kế hoạch, định hướng, sứ mệnh, giá trị cốt lõi và các quy định nội bộ khác của tập đoàn bao quát toàn bộ cấu trúc hoạt động chung của cả tập đoàn.
Quá trình phát triển từ một doanh nghiệp có quy mô nhỏ đến tập đoàn kinh tế được thực hiện bằng con đường kết hợp giữa (i) phát triển nội sinh (Công ty mẹ tự phát triển lớn mạnh với việc hình thành các chi nhánh, đơn vị, công ty trực thuộc của mình) và (ii) phát triển ngoại sinh (thông qua việc Công ty mẹ tiến hành thực hiện việc tập trung kinh tế như sáp nhập, hợp nhất, mua lại doanh nghiệp khác) hoặc liên kết kinh tế (liên doanh, liên kết với doanh nghiệp khác) nhằm tích tụ vốn, nâng cao vị thế, tăng cường khả năng cạnh tranh và tạo ra nhiều lợi ích.
1.2. Quan điểm về tập đoàn kinh tế ở Việt Nam
Ở Việt Nam, việc lựa chọn mô hình tập đoàn kinh tế nào phù hợp nhất là vấn đề hết sức khó khăn, khi mỗi mô hình lại có những ưu và nhược điểm nhất định. Đặc thù phát triển của nền kinh tế nước ta trong những năm qua đã để lại nhiều loại hình doanh nghiệp vẫn có tư tưởng hoạt động theo phương thức sản xuất phi thị trường, độc quyền theo cơ chế bao cấp, quan hệ giữa các công ty trong tổng công ty, trong liên hiệp là quan hệ hành chính, kinh tế phụ thuộc... Trong khi đó, việc hình thành tập đoàn kinh tế với quy mô lớn phải phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường, quan hệ giữa các công ty trong tập đoàn dựa trên nguyên tắc kinh tế bình đẳng giữa các pháp nhân.
Trong những năm đổi mới vừa qua, trừ những tập đoàn kinh tế nhà nước (3), tổng công ty nhà nước, đã có nhiều doanh nghiệp từ khối dân doanh có số vốn cả nghìn tỷ đồng, quản lý trên 10.000 nhân công, có hệ thống phân phối phủ khắp các tỉnh thành trong toàn quốc, có thương hiệu được nhiều người biết đến... Nhu cầu nội tại của chính các doanh nghiệp là mong muốn mở rộng hơn nữa quy mô hoạt động, bổ sung các nguốn lực như vốn, lao động, công nghệ..., do đó, họ rất cần một “cái áo” đủ rộng để đáp ứng tốc độ, quy mô phát triển của mình. Việc lựa chọn mô hình “Tập đoàn kinh tế” là một xu thế có thể hiểu được của các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay. Luật Doanh nghiệp năm 2005 lần đầu tiên đã có một điều khoản quy định về “tập đoàn kinh tế”; Điều 26, Nghị định số 139/2007/NĐ-CP của Chính phủ cũng đã có hướng dẫn bổ sung về tập đoàn kinh tế, theo đó khẳng định: “Tập đoàn kinh tế bao gồm nhóm các công ty có tư cách pháp nhân độc lập, được hình thành trên cơ sở tập hợp, liên kết thông qua đầu tư, góp vốn, sáp nhập, mua lại, tổ chức lại hoặc các hình thức liên kết khác; gắn bó lâu dài với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác tạo thành tổ hợp kinh doanh có từ hai cấp doanh nghiệp trở lên dưới hình thức công ty mẹ - công ty con. Tập đoàn kinh tế không có tư cách pháp nhân, không phải đăng ký kinh doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp. Việc tổ chức hoạt động của tập đoàn do các công ty lập thành tập đoàn tự thỏa thuận quyết định”. Tuy nhiên, hiện nay nhiều doanh nghiệp vẫn có cách hiểu khác nhau về tập đoàn, nhiều doanh nghiệp đã lấy cụm từ “tập đoàn” để gắn vào tên Công ty như “Công ty TNHH Tập đoàn”, “Công ty Cổ phần tập đoàn”. Mặc dù Luật Doanh nghiệp 2005, Nghị định số 139/2007/NĐ-CP đã xác định rõ bản chất pháp lý của tập đoàn, trừ mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước với cơ chế pháp lý riêng, nhưng vẫn còn có một số luật sư, chuyên gia vẫn yêu cầu có khung pháp lý để coi tập đoàn như là một thực thể công ty và có tư cách pháp nhân (4) như các loại hình công ty khác hiện nay.
TIN TỨC LIÊN QUAN