Cơ cấu của quy phạm pháp luật và quy phạm pháp luật hình sự - TS. Nguyễn Thị Hồi, TS. Đỗ Đức Hồng Hà - Trường Đại học Luật Hà Nội

Ngày đăng: 16/11/2020
Trong khoa học pháp lý Việt Nam hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về cơ cấu của quy phạm pháp luật (QPPL) nói chung và QPPL hình sự (QPPLHS) nói riêng. Theo quan điểm truyền thống được đề cập đến trong Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật của các cơ sở đào tạo luật học, thì QPPL có thể có ba bộ phận cấu thành là: giả định, quy định và chế tài.
Ngoài ra, còn có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này như: QPPL có hai bộ phận cấu thành là giả định và chỉ dẫn (1); QPPL có hai bộ phận cấu thành là quy tắc và bảo đảm (2); QPPL có ba bộ phận cấu thành là giả định, quy định và bảo đảm (3)... Vậy, QPPL nói chung và QPPLHS nói riêng có mấy bộ phận cấu thành?
 
Bài viết đưa ra quan điểm của tác giả về cơ cấu của QPPL nói chung và QPPL hình sự nói riêng.
 
QPPL là quy tắc xử sự chung nên thông thường nó phải chứa đựng những nội dung: thứ nhất, dự kiến những điều kiện, hoàn cảnh có thể xảy ra trong cuộc sống mà chủ thể sẽ gặp phải; đồng thời chỉ ra chủ thể là tổ chức, cá nhân nào sẽ ở vào điều kiện, hoàn cảnh đó; thứ hai, quy định cách xử sự mà Nhà nước cho phép hoặc bắt buộc hoặc cấm tổ chức, cá nhân ở vào điều kiện, hoàn cảnh đó thực hiện; thứ ba, hình thức khen thưởng mà tổ chức, cá nhân có thể được hưởng nếu thực hiện tốt các quy định của pháp luật hoặc những biện pháp xử phạt mà tổ chức, cá nhân có thể phải gánh chịu nếu không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đủ những cách xử sự mà Nhà nước đưa ra.
 
QPPL rất phong phú và đa dạng nên có thể được phân loại theo nhiều cách khác nhau. Căn cứ vào mức độ phổ biến của QPPL nói chung và QPPLHS nói riêng trong các văn bản QPPL, có thể chia chúng thành hai loại là QPPL thông thường (phổ biến) và QPPL xung đột (đặc biệt). Cơ cấu của hai loại QPPL này có những điểm khác biệt nhau.
 
1. Quy phạm pháp luật thông thường (phổ biến)
 
Cơ cấu của QPPL thông thường (phổ biến) - chiếm đa số tuyệt đối trong hệ thống pháp luật Việt Nam - có ba bộ phận là giả định, quy định và biện pháp bảo đảm thực hiện pháp luật (các hình thức thưởng, phạt).
 
1.1. Giả định của quy phạm pháp luật
 
Giả định là bộ phận của QPPL dự kiến trước những điều kiện, hoàn cảnh có thể xảy ra trong cuộc sống mà chủ thể sẽ gặp phải hoặc dự kiến trước những điều kiện, hoàn cảnh, để áp dụng các biện pháp tác động của Nhà nước. Bộ phận này còn chỉ rõ chủ thể là tổ chức, cá nhân nào cần phải xử sự trong điều kiện, hoàn cảnh đó hoặc tổ chức, cá nhân nào sẽ là đối tượng để áp dụng các hình thức khen thưởng hoặc các biện pháp xử phạt của Nhà nước. Vì vậy, phần giả định của QPPL nói chung và QPPLHS nói riêng thường trả lời cho các câu hỏi: ai? tổ chức, cá nhân nào? khi nào? trong điều kiện hoàn cảnh nào?…
 
Ví dụ 1: khoản 1 Điều 87 của Luật Giáo dục năm 2005 quy định: “Người học các chương trình giáo dục đại học nếu được hưởng học bổng, chi phí đào tạo do Nhà nước cấp hoặc do nước ngoài tài trợ theo hiệp định ký kết với Nhà nước thì sau khi tốt nghiệp phải chấp hành sự điều động làm việc có thời hạn của Nhà nước; trường hợp không chấp hành thì phải bồi hoàn học bổng, chi phí đào tạo”. Quy định này là một QPPL mà phần giả định của nó gồm các từ sau: “Người học các chương trình giáo dục đại học nếu được hưởng học bổng, chi phí đào tạo do Nhà nước cấp hoặc do nước ngoài tài trợ theo hiệp định ký kết với Nhà nước thì sau khi tốt nghiệp”, vì nó dự kiến trước điều kiện, hoàn cảnh có thể xảy ra trong cuộc sống. Đó là có những người được học đại học hoàn toàn bằng kinh phí đào tạo của Nhà nước và đã tốt nghiệp. Ngoài ra, phần giả định của quy phạm này còn gồm các từ trường hợp không chấp hành vì nó dự kiến trước điều kiện để áp dụng biện pháp tác động của Nhà nước - biện pháp trừng phạt của Nhà nước khi người tốt nghiệp đại học không chấp hành lệnh điều động của Nhà nước.
 
Phần giả định của QPPLHS chỉ nêu lên điều kiện, hoàn cảnh để áp dụng các biện pháp tác động - các hình phạt của Nhà nước và chủ thể nào có thể bị coi là người phạm tội, tức là đối tượng để áp dụng các hình phạt đó. Đồng thời, phần này cũng chỉ rõ rằng, chủ thể của tội phạm hay chủ thể là đối tượng để áp dụng các hình phạt của Nhà nước hiện nay chỉ là cá nhân mà không phải là tổ chức. Ví dụ 2: Khoản 1, Điều 182 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (BLHS) quy định về Tội gây ô nhiễm môi trường như sau: “Người nào thải vào không khí, nguồn nước, đất các chất gây ô nhiễm môi trường, phát tán bức xạ, phóng xạ vượt quá quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất thải ở mức độ nghiêm trọng hoặc làm môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác, thì bị phạt tiền từ năm mươi triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm”. Phần giả định của QPPLHS này gồm các từ: “người nào thải vào không khí, nguồn nước, đất các chất gây ô nhiễm môi trường, phát tán bức xạ, phóng xạ vượt quá quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất thải ở mức độ nghiêm trọng hoặc làm môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác” vì nó dự kiến trước ai và trong điều kiện, hoàn cảnh nào có thể bị coi là người phạm Tội gây ô nhiễm môi trường.
 
Giả định của QPPL có thể là đơn giản - chỉ nêu lên một điều kiện, hoàn cảnh có thể xảy ra trong thực tế mà khi điều kiện, hoàn cảnh đó xảy ra thì, các tổ chức, cá nhân đã được đề cập đến sẽ chịu sự tác động của quy phạm (trong Ví dụ 1 thì giả định của quy phạm là đơn giản). Song, giả định của QPPL cũng có thể là phức tạp - nêu lên nhiều điều kiện, hoàn cảnh có thể xảy ra trong cuộc sống và chỉ khi xảy ra tất cả các điều kiện, hoàn cảnh đó, tổ chức, cá nhân được đề cập mới chịu sự tác động của quy phạm (4) .
TIN TỨC LIÊN QUAN

Danh mục chính

Tin tức nổi bật

Thống kê truy cập

Đang xem: 17 lượt

Tổng số đã xem: 1544744 lượt

090 574 6666