Một số bất cập trong việc thừa nhận Quyền lập Di chúc chung của Vợ - Chồng, THS. LÊ MINH HÙNG - ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh

Ngày đăng: 16/11/2020
Nhiều luật gia ủng hộ cho quyền lập di chúc chung của vợ, chồng để định đoạt tài sản chung, thay vì mỗi bên chỉ được lập di chúc cá nhân. Vấn đề tưởng chừng như đơn giản và không có gì phải bàn cãi, vì quan điểm ấy không chỉ được bênh vực bởi luân lý mà còn được thừa nhận cả về mặt pháp lý.
Nhiều luật gia ủng hộ cho quyền lập di chúc chung của vợ, chồng để định đoạt tài sản chung, thay vì mỗi bên chỉ được lập di chúc cá nhân. Vấn đề tưởng chừng như đơn giản và không có gì phải bàn cãi, vì quan điểm ấy không chỉ được bênh vực bởi luân lý mà còn được thừa nhận cả về mặt pháp lý. Nhưng qua công tác nghiên cứu, giảng dạy cũng như qua tiếp cận với thực tiễn pháp lý về di chúc chung của vợ, chồng đã cho thấy, đây là một vấn đề khá phức tạp mà luật hiện hành chưa qui định đầy đủ, rõ ràng. Các thiếu sót, bất cập của luật, đã dẫn tới hậu quả là, làm cho vấn đề này càng trở nên rắc rối thêm, thậm chí còn tạo ra nhiều mâu thuẫn so với các qui định khác có liên quan. Từ đó, đòi hỏi cần phải lật lại vấn đề: liệu BLDS 2005 có nên tiếp tục thừa nhận quyền lập di chúc chung của vợ, chồng để định đoạt tài sản chung của họ hay không?
 
1. Lịch sử vấn đề và những thiếu sót, bất cập trong các qui định của pháp luật hiện hành về di chúc chung của vợ - chồng
1.1. Sơ lược lịch sử vấn đề
Xem xét trong Bộ luật Hồng Đức và Luật Gia Long thì không thấy có qui định về vấn đề này. Đối chiếu với Luật La Mã cũng như Bộ luật Dân sự Cộng hòa Pháp thì thấy họ cũng không thừa nhận quyền lập di chúc chung của vợ, chồng 1.
Tuy vậy, việc lập di chúc chung của vợ - chồng lại được thừa nhận trong tục lệ của ta từ lâu. Theo Giáo sư Vũ Văn Mẫu, thực tiễn tục lệ của Việt Nam trong các xã hội trước đây cho thấy, di chúc chung của vợ, chồng là hình thức di chúc thông dụng và việc vợ - chồng cùng nhau lập di chúc chung, là hiện tượng phổ biến thời bấy giờ 2. Quan niệm truyền thống của người Việt Nam vốn rất coi trọng đạo nghĩa vợ - chồng và luôn muốn củng cố tình thương yêu, đoàn kết trong gia đình, nên cũng khuyến khích việc vợ, chồng cùng nhau lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung, và coi đó như là một biểu hiện cao đẹp của sự đoàn kết, yêu thương giữa vợ - chồng.
Luật thực định thời cận đại cũng đã bắt đầu ủng hộ giải pháp mang tính luân lý đó. Nghiên cứu các Bộ Dân luật của các chế độ trước, thì thấy các Bộ Dân luật Bắc và Dân luật Trung đều thừa nhận quyền lập di chúc chung của vợ - chồng 3. Bộ Dân luật Sài Gòn 1972 cũng cho phép vợ - chồng cùng lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung4.
Pháp luật hiện hành của Nhà nước ta cũng thừa nhận vợ, chồng có quyền lập di chúc chung. Thông tư 81-TANDTC ngày 24/71981 đã từng nhắc đến di chúc chung của vợ, chồng. Pháp lệnh Thừa kế 1990 tuy không trực tiếp qui định về di chúc chung của vợ, chồng, nhưng cũng gián tiếp thừa nhận hiệu lực của di chúc chung5. Vấn đề di chúc chung của vợ, chồng được qui định khá rõ trong BLDS 1995 và BLDS 2005 6. Các qui định này trong BLDS 2005 đã có nhiều sửa đổi so với qui định của BLDS 1995 7. Mặc dù vậy, việc qui định về di chúc chung trong BLDS 2005 vẫn còn nhiều điểm thiếu sót, bất cập và chưa phù hợp với thực tế.
Có thể nói, pháp luật cận đại và luật hiện hành Việt Nam thừa nhận quyền lập di chúc chung của vợ - chồng là thể hiện nguyên tắc củng cố tình thương yêu, đoàn kết trong gia đình, nhưng như vậy sẽ gây ra sự mâu thuẫn với các quy định khác về di chúc làm nảy sinh nhiều bất cập không thể giải quyết được, thậm chí, còn làm phá vỡ tính hệ thống của chế định quyền thừa kế.
1.2. Quyền lập di chúc chung của vợ - chồng và nguyên tắc tự nguyện cá nhân trong việc lập di chúc
Điều 646 Bộ luật Dân sự (BLDS) 2005 qui định rõ: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển dịch tài sản của mình cho người khác sau khi chết”. Theo đó, di chúc được xem là phương tiện pháp lý để cá nhân định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của mình. Di chúc không thể là giao dịch dành cho mọi chủ thể hay một cộng đồng chủ thể. Mặt khác, vấn đề thừa kế di sản là vấn đề pháp lý liên quan tới thân trạng và quyền lợi vật chất của một cá nhân, được tiến hành sau khi cá nhân chết. Như vậy, Điều 663 qui định di chúc chung của vợ, chồng đã tạo ra sự mâu thuẫn so với Điều 646 nói trên. Mặt khác, việc thừa nhận di chúc chung của vợ chồng sẽ dẫn đến các vấn đề pháp lý phức tạp khác rất khó xử lý về mặt kỹ thuật pháp lý. Ví dụ như xác định thời điểm có hiệu lực của di chúc chung, việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung, chấm dứt di chúc chung…
Tuy vậy, nếu thiên về nguyên tắc củng cố tình thương yêu và đoàn kết trong gia đình, thì việc qui định về di chúc chung của vợ, chồng là điều cần thiết. Cũng cần phải nói thêm là, trong quan điểm của tục lệ và pháp luật của các chế độ trước, việc thừa nhận quyền lập di chúc chung không chỉ để củng cố tình thương yêu đoàn kết trong gia đình, mà việc lập di chúc chung, trước hết, là nhằm tạo ra giải pháp phòng ngừa, tạo ra sự chế ước đối với người chủ gia đình, theo quan điểm phụ hệ, để bảo vệ quyền thừa kế của những người thân thích khác trong gia đình.
TIN TỨC LIÊN QUAN

Danh mục chính

Tin tức nổi bật

Thống kê truy cập

Đang xem: 9 lượt

Tổng số đã xem: 1435309 lượt

090 574 6666