Quy định về tội cưỡng dâm làm nạn nhân tự sát ?

Ngày đăng: 16/11/2020
Người bị cưỡng dâm cũng có trường hợp vì nhiều lý do khác nhau nên đã tự sát. Tuy nhiên khi xác định do bị cưỡng dâm mà nạn nhân tự sát thì người phạm tội mới bị coi là làm nạn nhân tự sát...
Hỏi: Quy định về tội cưỡng dâm làm nạn nhân tự sát ?
 
Đáp: Cưỡng dâm làm nạn nhân tự sát (điểm c khoản 3 Điều 113)
 
Người bị cưỡng dâm cũng có trường hợp vì nhiều lý do khác nhau nên đã tự sát. Tuy nhiên khi xác định do bị cưỡng dâm mà nạn nhân tự sát thì người phạm tội mới bị coi là làm nạn nhân tự sát. Thực tiễn xét xử, có những trường hợp nạn nhân tự sát là do những lý do trực tiếp khác chứ không phải do bị cưỡng dâm, bị chồng con, gia đình ruồng bỏ, khinh bỉ, ngược đãi, thậm chí có những hành vi xúc phạm đến nhân phẩm của nạn nhân, làm cho nạn nhân chán đời tự sát, nhưng nguyên nhân sâu xa dẫn đến việc gia đình nạn nhân ruồng bỏ là do bị cưỡng dâm thì người phạm tội cưỡng dâm vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về trường hợp làm nạn nhân tự sát.
 
Nếu nguyên nhân dẫn đến việc nạn nhân tự sát không liên quan gì đến hành vi cưỡng dâm của người phạm tội thì không thuộc trường hợp cưỡng dâm làm nạn nhân tự sát. Ví dụ: chị H là sinh viên trường đại học, bị Đoàn Văn Phương cưỡng dâm trong lúc chị H đang yêu anh Đinh Thế A. Biết chị H bị cưỡng dâm nhưng anh A vẫn yêu chị H và quyết tâm lấy chị H làm vợ. Ngay từ khi chị H và anh A yêu nhau, gia đình chị H đã phản đối, muốn gả H cho người giàu có. Sau khi tốt nghiệp, bố mẹ chị H bắt chị H về để gả cho người mà gia đình đã hứa, chị H đã viết một lá thư tuyệt mệnh và uống thuốc tự tử.
 
Người phạm tội cưỡng dâm làm nạn nhân tự sát, không nhất thiết nạn nhân phải chết mà chỉ cần nạn nhân có hành vi tự sát là người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm c khoản 3 Điều 113.
 
Cưỡng dâm thuộc các trường hợp gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên; biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội; làm nạn nhân chết hoặc tự sát, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 113 có khung hình phạt từ bảy năm đến mười tám năm tù.
 
 
Tòa nhà HSLAWS, Số 183 Trường Chinh, Khương Mai, Thanh Xuân, Hà Nội.
Điện thoại: 043 724 6666; Di động: 090  574 6666

Danh mục chính

Tin tức nổi bật

Thống kê truy cập

Đang xem: 15 lượt

Tổng số đã xem: 1438086 lượt

090 574 6666