Quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân ?

Ngày đăng: 14/11/2020
Đây là trường hợp tương tự với trường hợp giết người thi hành công vụ quy định tại điểm a khoản 1 Điều 93, chỉ khác nhau ở chỗ nạn nhận trong trường hợp này chỉ bị thương...
Hỏi: Quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân ?
 
Đáp: Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân (điểm k khoản 2 Điều 104)
 
a) Để cản trở người thi hành công vụ
 
Đây là trường hợp tương tự với trường hợp giết người đang thi hành công vụ quy định tại điểm a khoản 1 Điều 93, chỉ khác nhau ở chỗ nạn nhân chỉ bị thương chứ không bị chết và người phạm tội cũng chỉ mong muốn hoặc bỏ mặc cho nạn nhân bị thương chứ không mong muốn hoặc bỏ mặc cho nạn nhân bị chết. Tuy nhiên, trong trường hợp phạm tội này, người phạm tội gây thương tích cho nạn nhân là để cản trở việc thi hành công vụ của họ, còn ở tội giết người thì người phạm tội không nhất thiết cản trở việc thi hành công vụ của nạn nhân mà có thể vì động cơ khác. Các dấu hiệu khác của trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội giết người đang thi hành công vụ quy định tại điểm d khoản 1 Điều 93 (xem mục giết người đang thi hành công vụ).
 
b) Vì lý do công vụ của nạn nhân
 
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp giết người vì lý do công vụ của nạn nhân quy định tại điểm d khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự, chỉ khác nhau ở chỗ trường hợp phạm tội này làm nạn nhân chỉ bị thương hoặc bị tổn hại đến sức khỏe chứ không mong muốn cho nạn nhân bị chết. Nếu nạn nhân chết là ngoài sự mong muốn của người phạm tội.
 
Các trường hợp phạm tội trên, nếu thương tích của người bị hại dưới 11% thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 104, nếu thương tích của người bị hại từ 11% đến 30% thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 104, nếu thương tích của người bị hại từ 31% đến 60% thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 104
 
Nếu không thuộc một trong các trường hợp nêu trên mà tỷ lệ thương tật của người bị hại dưới 11% thì người phạm tội chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu tỷ lệ thương tật của người bị hại từ 11% đến 30% thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 104, nếu thương tật của người bị hại từ 31% đến 60% thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 104, nếu tỷ lệ thương tật của người bị hại từ 61% trở lên thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 104.
 
 
Tòa nhà HSLAWS, Số 183 Trường Chinh, Khương Mai, Thanh Xuân, Hà Nội.
Điện thoại: 043 724 6666; Di động: 090  574 6666

Danh mục chính

Tin tức nổi bật

Thống kê truy cập

Đang xem: 9 lượt

Tổng số đã xem: 1466616 lượt

090 574 6666