Pháp luật về cạnh tranh cần bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống pháp luật
Ngày đăng: 17/10/2020
Luật cạnh tranh được Quốc hội khoá XI thông qua ngày 03/12/2004, có hiệu lực kể từ ngày 01/7, 2005 (viết tắt LCT). Sau hơn 10 năm thực thi, LCT đã phát huy được tốt vai trò trong việc tạo lập, duy trì và đảm bảo một môi trường kinh doanh bình đẳng và lành mạnh cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Tuy nhiên, quá trình thực thi LCT cũng gặp nhiều vướng mắc do giữa các quy phạm của LCT với các quy định của luật chuyên ngành chưa bảo đảm sự thống nhất, cụ thể:
Thứ nhất, LCT được coi là văn bản pháp luật được áp dụng chung trong mọi ngành, lĩnh vực của nền kinh tế. Với ý nghĩa đó, việc xác định vị trí thống lĩnh của bất kỳ một doanh nghiệp hay nhóm doanh nghiệp nào đó trên thị trường phải căn cứ theo quy định tại Điều 11[1] LCT. Nhưng thực tế đã xuất hiện trường hợp pháp luật chuyên ngành tự quy định tiêu chí riêng nhằm xác định vị trí thống lĩnh thị trường của doanh nghiệp mà không căn cứ theo quy định của pháp luật cạnh tranh. Chẳng hạn, Điều 19[2] Luật Viễn thông được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 23/11/2009, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/ 2010, mà theo đó, có quy định về cạnh tranh trong kinh doanh dịch vụ viễn thông, cấm doanh nghiệp viễn thông hoặc nhóm doanh nghiệp viễn thông có vị trí thống lĩnh thị trường, doanh nghiệp viễn thông nắm giữ phương tiện thiết yếu thực hiện một số hành vi về cạnh tranh. Nếu chỉ dừng lại nội dung quy định đó hoặc trong điều này có quy định dẫn chiếu đến pháp luật cạnh tranh nhằm xác định vị trí thống lĩnh của doanh nghiệp viễn thông thì không có gì vướng mắc. Căn cứ vào quy định tại khoản 4 Điều 19 Luật Viễn thông, ngày 15/11/ 2012, Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành Thông tư số 18/2012/TT-BTTTT kèm theo danh mục và xác định doanh nghiệp viễn thông, nhóm doanh nghiệp viễn thông có vị trí thống lĩnh thị trường đối với các dịch vụ viễn thông quan trọng (viết tắt Thông tư số 18/2012/TT-BTTTT). Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/ 01/2013 và thay thế cho Quyết định số 1622/QĐ-BTTTT ngày 29/10/2008 của Bộ Thông tin và Truyền thông về việc Ban hành danh mục dịch vụ và doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp viễn thông chiếm thị phần khống chế. Có lẽ điều đáng nói ở đây là Thông tư số 18/2012/TT-BTTTT hoàn toàn không đưa ra bất kỳ tiêu chí nào nhằm xác định thị trường và vị trí thống lĩnh của doanh nghiệp trên các thị trường đã được xác định, nhưng lại chỉ rõ thị trường và nêu đích danh doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh.Ví dụ: Đối với dịch vụ điện thoại đường dài trong nước, Doanh nghiệp viễn thông được xác định có vị trí thống lĩnh thị trường là Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam; Đối với Dịch vụ điện thoại quốc tế, Nhóm doanh nghiệp viễn thông được xác định có vị trí thống lĩnh thị trường gồm Tập đoàn Viễn thông Quân đội và Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam;… Như vậy, có thể nói những nội dung được quy định khoản 4 Điều 19 của Luật Viễn thông và sự cụ thể hóa quy định này tại Thông tư số18/2012/TT-BTTTT trong chừng mực nhất định nào đó sẽ rất hữu ích và cần thiết cho cơ quan cạnh tranh trong gỉai quyết những vụ việc cụ thể trên thị trường viễn thông. Tuy nhiên, nếu lạm dụng điều này và cho rằng pháp luật cạnh tranh và viễn thông có sự tương thích là hoàn toàn sai lầm.
Thứ hai, Điều 8[3] Điều 39 [4] LCT, quy định các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh; hành vi cạnh tranh không lành mạnh một cách rõ ràng theo những tiêu chí cụ thể, có các yếu tố cấu thành hành vi rõ ràng và được điều chỉnh một cách hệ thống. LCT và các văn bản hướng dẫn thi hành đã xác định rõ thế nào là hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh; thế nào là hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền; thế nào là hành vi tập trung kinh tế; những hành vi cạnh tranh không lành mạnh cũng như những hành vi nào bị cấm và cấm theo những điều kiện nào. Như vậy, sẽ là phù hợp hơn khi xây dựng quy định về các hành vi hạn chế cạnh tranh; hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong các luật chuyên ngành, mà theo đó, có sự dẫn chiếu hoặc quy định theo các yếu tố cấu thành hành vi được quy định trong LCT. Nhưng qua nghiên cứu cho thấy, cụ thể Điều 89[5]Luật Đấu thầu năm 2013, có quy định hành vi cạnh tranh nhưng không đúng và đủ theo những yếu tố cấu thành hành vi mà pháp luật cạnh tranh đã quy định. Ngoài ra, cũng có trường hợp pháp luật chuyên ngành quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh; hành vi cạnh tranh không lành mạnh nhưng lại khác biệt và sự mâu thuẫn so với các quy định của LCT, ví dụ, khoản 2 Điều 19 Luật Viễn thông.
Thứ ba, theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 49 LCT, Cơ quan quản lý cạnh tranh có thẩm quyền điều tra đối với vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh và hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Khoản 2 Điều 53 LCT quy định Hội đồng cạnh tranh có nhiệm vụ tổ chức xử lý, giải quyết khiếu nại đối với các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh. Sẽ là phù hợp nếu pháp luật chuyên ngành dẫn chiếu quy định của pháp luật cạnh tranh để xác định thẩm quyền xử lý khi có hành vi vi phạm xảy ra. Tuy nhiên, thực tế pháp luật chuyên ngành lại quy định thẩm quyền xử lý cho cơ quan quản lý chuyên ngành, dẫn tới sự xung đột về thẩm quyền xử lý vi phạm giữa cơ quan cạnh tranh và cơ quan quản lý chuyên ngành. Ví dụ, Thông tư số 18/2012/TT-BCT ngày 29/6/ 2012 của Bộ Công Thương quy định giám sát thị trường phát điện cạnh tranh, mà theo đó, tại Điều 12 của Thông tư này có giao thẩm quyền xác minh điều tra đối với hành vi lạm dụng vị trí độc quyền, thống lĩnh thị trường cho Cục Điều tiết điện lực là trái với quy định tại khoản 2 Điều 49 LCT và Nghị định 06/2006/NĐ-CP ngày 09/01/2006 của Chính phủ, quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý cạnh tranh. Hoặc tại khoản 5 Điều 19 Luật Viễn thông có quy định các doanh nghiệp viễn thông khi tập trung kinh tế có thị phần kết hợp từ 30% đến 50% trên thị trường dịch vụ liên quan phải thông báo cho cơ quan quản lý chuyên ngành về viễn thông trước khi tiến hành tập trung kinh tế. Trong khi theo quy định tại khoản 1[6] Điều 20 LCT trường hợp này doanh nghiệp phải thông báo cho cơ quan quản lý cạnh tranh trước khi tiến hành tập trung kinh tế.
Thứ tư, sự mâu thuẫn và khác biệt về hình thức và mức độ xử lý theo quy định của pháp luật cạnh tranh và pháp luật chuyên ngành. Đây chính là mâu thuẫn cơ bản giữa pháp luật cạnh tranh và pháp luật chuyên ngành, đặc biệt về hình thức và mức độ xử lý đối với những hành vi hạn chế cạnh tranh. Theo quy định của pháp luật cạnh tranh, hành vi hạn chế cạnh tranh được coi là có tính chất và mức độ nguy hại rất cao đối với môi trường cạnh tranh bởi đó là hành vi của doanh nghiệp làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường. Vì vậy, tại khoản 1 Điều 118 LCT quy định:“Đối với hành vi vi phạm quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền hoặc tập trung kinh tế, cơ quan có thẩm quyền xử phạt có thể phạt tiền tối đa đến 10% tổng doanh thu của tổ chức, cá nhân vi phạm trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm.” Tuy nhiên, thực tế cho thấy quy định về việc xử lý của một số luật chuyên ngành chỉ mang tính chất phạt hành chính, đặc biệt là mức độ xử phạt thấp hơn nhiều so với quy định trong pháp luật cạnh tranh. Ví dụ, tại điểm d khoản 2 Điều 10 Luật Giá quy định cấm đối với các hành vi thông đồng về giá dưới mọi hình thức để trục lợi. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 13 Nghị định 109/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ, quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý giá, phí, lệ phí, hóa đơn, mà theo đó, số tiền phạt vi phạm thấp nhất 1.000.000 đồng và cao nhất 60.000.000 đồng tương ứng với hàng hóa, dịch vụ bán tăng giá có tổng giá trị đến 50.000.000 đồng và đến trên 500.000.000 đồng.
Thứ năm, sự mâu thuẫn, khác biệt về quy trình xử lý vi phạm giữa pháp luật cạnh tranh và pháp luật chuyên ngành. LCT bao gồm hai phần, phần quy phạm về luật nội dung và phần quy phạm về luật hình thức, mà theo đó, phần quy phạm về luật hình thức được quy định từ Chương IV trở đi, vì là quy phạm về luật hình thức nên kết cấu quy trình và thủ tục tố tụng rất chặt chẽ, bao gồm các giai đoạn điều tra với thời gian và yêu cầu cụ thể nhằm chứng minh hành vi vi phạm để quyết định xử lý. Trong khi đó, pháp luật chuyên ngành quy định thủ tục xác định hành vi vi phạm đơn giản hơn và với thời gian thường ngắn hơn so với thời gian tố tụng theo pháp luật cạnh tranh.
Thứ sáu, vấn đề rào cản pháp lý đặt ra trong các pháp luật chuyên ngành và mục tiêu đảm bảo và thúc đẩy một môi trường cạnh tranh lành mạnh của pháp luật cạnh tranh. Để đạt được mục tiêu thúc đẩy cạnh tranh thì pháp luật cạnh tranh phải không ngừng hướng tới việc xoá bỏ các rào cản gia nhập hoặc rút lui khỏi thị trường và những rào cản khác. Tuy nhiên, hiện còn nhiều vấn đề phải giải quyết liên quan đến các quy định mang tính rào cản thị trường trong pháp luật chuyên ngành. Những quy định mang tính đặt điều kiện cho việc thành lập hoặc hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong pháp luật chuyên ngành trong nhiều trường hợp là không cần thiết và không phù hợp với mục tiêu mở rộng thị trường, đẩy mạnh cạnh tranh của pháp luật cạnh tranh.
3. Kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh
Một là, vấn đề cạnh tranh trong nền kinh tế đã được Nhà nước ta quan tâm từ nhiều năm nay và chính sách cạnh tranh cho nền kinh tế cũng đã được Nhà nước ta xây dựng. Tuy nhiên, từ thực tiễn kết quả rà soát bộc lộ ra những mâu thuẫn, chồng chéo và bất cập của hệ thống pháp luật đã cho thấy vấn đề hoặc là chính sách cạnh tranh của chúng ta được xây dựng không tốt nên không phát huy được hiệu quả trong việc định hướng cho các hoạt động lập pháp, hoặc là tầm quan trọng của chính sách cạnh tranh đã không được đánh giá đúng mức nên không được sử dụng một cách hiệu quả đúng với tầm vóc của nó. Dù có ở trường hợp nào đi nữa thì cũng đòi hỏi chúng ta cần phải xem xét, đánh giá và nhận thức lại tầm quan trọng của chính sách cạnh tranh để sử dụng chính sách này như một công cụ hữu hiệu nhằm phát triển kinh tế đất nước thông qua việc định hướng xây dựng một khung pháp lý thống nhất để tạo lập và thúc đẩy cạnh tranh trên thị trường.
Hai là, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định liên quan đến cạnh tranh trong pháp luật chuyên ngành theo hướng lấy chính sách cạnh tranh làm trung tâm và các quy định của pháp luật cạnh tranh làm nền tảng. Có thể khẳng định xu hướng thoát ly khỏi pháp luật cạnh tranh để xây dựng những quy định riêng về cạnh tranh trong pháp luật chuyên ngành là bởi trong quá trình xây dựng pháp luật chuyên ngành đã không hướng tới chính sách cạnh tranh chung và không vì mục tiêu chung trong việc kiểm soát các hành vi phản cạnh tranh. Nếu không giải quyết được hiện tượng này và nếu chính sách, pháp luật cạnh tranh không thể hiện được vai trò là trung tâm để quy tụ các pháp luật chuyên ngành đi về một mối thì trong tương lai có lẽ nền cạnh tranh nước nhà sẽ ngày một trầm trọng bởi các quy định mang tính tản mạn, mâu thuẫn và khác biệt về hành vi, về hình thức và mức độ xử lý, xung đột và giằng xé về mặt thẩm quyền.
Ba là, cần sửa đổi, bổ sung theo hướng nhằm tạo ra hệ thống các văn bản pháp luật cạnh tranh đồng bộ và tiên tiến. Thực tế cho thấy, quá trình thực thi đã gặp phải nhiều khó khăn, một phần do chính sự bất cập và thiếu sót trong các quy định cụ thể của LCT. Mặt khác, chính các quy định của pháp luật cạnh tranh cũng có nhiều bất cập, mâu thuẫn. Cụ thể là sự mâu thuẫn và bất cập giữa những quy định của LCT và các quy định trong các văn bản hướng dẫn thi hành. Bên cạnh đó, trong điều kiện kinh tế đã có nhiều thay đổi vì vậy việc sửa đổi, bổ sung là cần thiết nhằm đáp ứng những đòi hỏi và xu thể phát triển mới của kinh tế - xã hội. Hơn nữa, trong những năm gần đây nhiều pháp luật chuyên ngành có xu hướng thoát ly khỏi pháp luật cạnh tranh để xây dựng các quy định riêng về vấn đề cạnh tranh, trong khi đó LCT là luật trung tâm để các luật chuyên ngành khác dẫn chiếu và áp dụng theo.
Phạm Thị Hồng Đào
VPLS Thạnh Hưng Nguồn: moj.gov.vn
TIN TỨC LIÊN QUAN