Vi phạm các quy định về sử dụng đất đai bị xử lý như thế nào?

Ngày đăng: 13/11/2020
Theo Luật đất đai hiện hành thì những chủ thể phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước đối với việc sử dụng đất bao gồm:...
Câu hỏi:
 
Theo quy định hiện hành, những chủ thể nào phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước đối với việc sử dụng đất? Khi nào những người này bị coi là phạm tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai? Nếu phạm tội thì họ bị xử lý như thế nào?
 
Trả lời:
 
Theo Điều 2 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29-10-2004 của Chính phủ về thi hành Luật đất đai­­­1 thì những chủ thể phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước đối với việc sử dụng đất bao gồm: Người đứng đầu của tổ chức, tổ chức nước ngoài là người chịu trách nhiệm trước Nhà nước đối với việc sử dụng đất của tổ chức mình. Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn để sử dụng vào mục đích xây dựng trụ sở Ủy ban nhân dân và các công trình công cộng phục vụ hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục, thể thao, vui chơi, giải trí, chợ, nghĩa trang, nghĩa địa và các công trình công cộng khác của địa phương. Người đại diện cho cộng đồng dân cư là người chịu trách nhiệm trước nhà nước đối với việc sử dụng đất đã giao cho cộng đồng dân cư. Người đứng đầu cơ sở tôn giáo là người chịu trách nhiệm trước Nhà nước đối với việc sử dụng đất đã giao cho cơ sở tôn giáo. Chủ hộ gia đình là người chịu trách nhiệm trước Nhà nước đối với việc sử dụng đất của hộ gia đình. Cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, cá nhân nước ngoài chịu trách nhiệm trước Nhà nước đối với việc sử dụng đất của mình. Người đại diện cho những người sử dụng đất mà có quyền sử dụng chung thửa đất là người chịu trách nhiệm trước Nhà nước đối với việc sử dụng đất đó.
 
Theo Điều 173 Bộ luật hình sự thì những người này chỉ bị coi là phạm tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai khi họ lấn chiếm đất hoặc chuyển quyền sử dụng đất, sử dụng đất trái với các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng đất đai gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Người phạm tội này trong trường hợp thông thường (không có tình tiết tăng nặng định khung) bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam dữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ ba mươi triệu đồng đến một trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ hai năm đến bảy năm: có tổ chức; phạm tội nhiều lần gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến hai mươi triệu đồng.
----------------------------
 
1. Nghị định này đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần bởi các Nghị định: số 17/2006/NĐ-CP, số 84/2007/NĐ-CP, số 69/2009/NĐ-CP, số 88/2009/NĐ-CP (BT)
 
 
 
Tòa nhà HSLAWS, Số 183 Trường Chinh, Khương Mai, Thanh Xuân, Hà Nội
Điện thoại: 043 724 6666; Di động: 090  574 6666

Danh mục chính

Tin tức nổi bật

Thống kê truy cập

Đang xem: 26 lượt

Tổng số đã xem: 1698030 lượt

090 574 6666