Hình thức hợp đồng dân sự

Ngày đăng: 09/11/2020
Điều 401. Bộ luật Dân sự 2005 quy định về việc hình thức hợp đồng dân sự
Điều 401. Hình thức hợp đồng dân sự 
 
1. Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định loại hợp đồng đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất định.
 
2. Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì phải tuân theo các quy định đó.
 
Hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
 
1. Hình thức của hợp đồng được Bộ luật dân sự năm 2005 quy định các mục khác nhau: ở mục giao dịch dân sự ( Điều 133) - vì quy định các mục khác nhau: ở mục giao dịch  dân sự phổ biến, ở mục giao kết hợp đồng dân sự ( quy định chung về các hình thức hợp đồng dân sự) và ở trong các quy định cụ thể về từng loại hợp đồng ( khi một hợp đồng bắt buộc phải được thể hiện dưới một hình thức nhất định). Mục đích của các quy định về hình thức hợp đồng nhằm tạo điều kiện cho các bên tham gia giao kết hợp đồng dân sự được quyền tự do lựa chon cho hình thức của hợp đồng, phù hợp với mục đích của giao dịch dân sự, hạn chế tranh chấp. Mặc dù đối với một số loại hợp đồng dân sự pháp luật quy định phải đăng ký, nhưng mục đích của việc đăng ký, công chứng, chứng thực này không phải chỉ nhằm bảo đảm sự kiểm soát của Nhà nước đối với một số loại tài sản nhất định, ổn định trật tự xã hội, mà còn là cơ sở để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao kết hợp đồng dân sự. 
 
Bộ luật dân sự năm 1995 trước đây cũng như Bộ luật dân sự năm 2005 hiện hành quy định hình thức của hợp đồng dân sự rất phong phú, đa dạng; có thể bằng lời nói hoặc bằng văn bản, hoặc bằng văn bản có công chứng, chứng thực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Quy định này của Bộ luật dân sự là sự kết hợp hài hòa giữa phong tục tập quán khi giao kết hợp đồng với nguyên tắc pháp lý hiện đại.
 
Đối với những hợp đồng dân sự mà pháp luật quy định bắt buộc phải tuân theo một hình thức nhất định là phải bằng văn bản và có công chứng, chứng thực thì  các bên phải tuân theo hình thức đó. Nếu pháp luật không quy định thì các bên có thể lựa chọn các hình thức giao kết hợp đồng sau:
 
-  Hình thức bằng lời nói: Thông qua các hình thức này các bên giao kết hợp đồng chỉ cần thỏa thuận miệng với nhau về những nội dung cơ bản của hợp đồng hoặc mặc nhiên thừa nhận những hành vi nhất định đối với nhau. Hình thức này thường được áp dụng trong những trường hợp các bên có độ tin tưởng lẫn nhau hoặc đối với những hợp đồng đơn giản hoặc hợp đồng mà ngay sau khi giao kết đã được thực hiện và chấm dứt. Đối với hợp đồng được lập theo hình thức này, các bên giao kết chỉ cần thỏa thuận miệng với nhau những nội dung chủ yếu của hợp đồng hoặc mặc nhiên thừa nhận những hành vi nhất định đối với nhau. Tùy từng loại hợp đồng cụ thể mà nội dung chủ yếu khác nhau. 
 
- Hình thức văn bản. Để nâng cao tính xác thực về những nội dung đã cam kết, các bên có thể thỏa thuận nội dung giao kết hợp đồng bằng văn bản. Có hai loại: (1) Hợp đồng được giao kết bằng văn bản chỉ có chữ ký của các bên; (2) Hợp đồng được giao kết bằng văn bản có công chứng, chứng thực:
 
+ Hình thức hợp đồng bằng văn bản chỉ có chữ ký của các bên đương sự. Trong các văn bản đó các bên phải ghi đầy đủ nội dung chủ yếu của hợp đồng và cùng ký tên xác nhận vào văn bản. Khi có tranh chấp, hợp đồng được giao kết bằng hình thức văn bản là chứng cứ pháp lý chắc chắn hơn so với hình thức hợp đồng bằng lời nói. Căn cứ vào hợp đồng giao kết bằng văn bản, các bên dễ dàng nhận rõ quyền và nghĩa vụ của mình trong hợp đồng
 
+Hình thức văn bản có chứng nhận hoặc chứng thực thường dược áp dụng đối với những trường hợp có đối tượng là tài sản có giá trị lớn hoặc tài sản mà Nhà nước thấy cần thiết phải quản lý, kiểm soát quá trình dịch chuyển; Những hợ đồng có tính chất phức tạp, chứa đựng khả năng xảy ra tranh chấp. Đối với hình thức này, các bên phải ghi những nội dung chủ yếu, ký tên vào bản hợp đồng và thực hiện thủ tục chứng nhận hợ đồng tại cơ quan công chứng hoặc chứng thực hợp đồng tại Ủy ban nhân dân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật đối với từng loại hợp đồng cụ thể. Đối với những hợp đồng mà pháp luật quy định phải đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các bên phải hoàn tất đầy đủ những thủ tục.
 
Luật án lệ Hoa Kỳ thừa nhận bất kỳ văn bản nào, dù có tên gọi là hợp đồng hay không nếu văn bản đó thỏa mãn các điều kiện: có thể xác định đối tượng của hợp đồng; đủ để thấy hợp đồng được lập giữa các bên; các điều khoản chủ yếu của hợp đồng được thể hiện tương đối rõ. Cũng theo pháp luật Hoa Kỳ, đối với hợp đồng được lập thành văn bản, không thống nhất thiết các bên phải ký ddaaayf đủ vào bản hợp đồng. Hợp đồng có thể có chữ ký của một bên, bên mà sau này sẽ bị kiện. Luật của các bang cũng thừa nhận các hình thức khác nhau của chữ ký.
 
2. Theo quy định tại khoản 2 Điều 401 " hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác". Quy định này là bước phát triển của Bộ luật dân sự năm 2005 so với các văn bản pháp luật trước đây về hợp đồng dân sự trong đó có Bộ luật dân sự năm 1995, thể hiện sự hoàn thiện hơn của Bộ luật dân sự năm 2005. Trước đây, hình thức của hợp đồng là một trong bốn điều kiện tạo nên tính hợp pháp của hợp đồng, nếu hợp đồng không thỏa mãn quy định về hình thức, hợp đồng bị coi là đương nhiên vô hiệu, các bên có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu bất kỳ lúc nào. Quy định như thế này phủ nhận ý chí tự nguyện, sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng; thể hiện sự can thiệp quá sâu, không cần thiết của Nhà nước vào các quan hệ tư; và trong nhiều trường hợp không bảo đảm được lợi ích hợp pháp của các bên chủ thể. Cho đến Bộ luật dân sự năm 2005, hình thức giao dịch dân sự nói chung, hợp đồng dân sự nói riêng chỉ là điều kiện có hiệu lực của giao dịch, hợp đồng trong trường hợp vi phạm quy định về hình thức mà pháp luật quy định, một hợp đồng này không đương nhiên vô hiệu, nó vẫn có giá trị đối với các bên trong hợp đồng, vẫn làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng, trừ khi pháp luật có quy định hợp đồng này vô hiệu. Để bảo đảm tính khả thi, phát huy tác dụng tốt của quy định này, cần phải quy định rõ. "... trừ trường hợp pháp luật có quy định khác" là những trường hợp cụ thể nào.
 
Quy định tại khoản 2 Điều 401 làm cho Bộ luật dân sự năm 2005 của nước ta " gần" hơn với pháp luật hợp đồng của các nước khác trên thế giới. Chỉ có Cộng hòa Liên bang Đức quy định hình thức của hợp đồng là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, còn hầu hết các quốc gia khác không quy định về điều này ngay cả trong trường hợp pháp luật quy định về hình thức của hợp đồng. Hình thức của hợp đồng chỉ có ý nghĩa trong việc đối kháng với bên thứ ba, còn giữa các bên trong hợp đồng, điều quan trọng nhất là đầy đủ là sự thỏa thuận và thống nhất ý chí. Theo luật án lệ của Anh, Hoa Kỳ, nếu hợp đồng không lập thành văn bản mà một bên vi phạm hợp đồng thì bên bị vi phạm không thể nhờ Tòa án can thiệp thuộc bên kia phải thực thi nghĩa vụ được
 
 Nguồn tham khảo: Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2005, Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, PGS.TS Hoàng Thế Liên (Chủ biên) 

Danh mục chính

Tin tức nổi bật

Thống kê truy cập

Đang xem: 25 lượt

Tổng số đã xem: 1697598 lượt

090 574 6666