Chế độ sở hữu ở Việt Nam

Ngày đăng: 20/10/2020
Chế độ sở hữu là cơ sở để hình thành nên quan hệ sở hữu – thành phần quan trọng nhất trong quan hệ sản xuất, là yếu tố quyết định đến quá trình tổ chức sản xuất và phân phối sản phẩm có được từ kết quả của việc sản xuất đó...
Có thể nói, chế độ sở hữu, nhất là đối với đất đai, tư liệu sản xuất là vấn đề vô cùng quan trọng đối với mỗi chế độ xã hội, mỗi quốc gia, nên cũng là vấn đề được bàn luận, được nhắc đến nhiều nhất. Chế độ sở hữu là cơ sở để hình thành nên quan hệ sở hữu – thành phần quan trọng nhất trong quan hệ sản xuất, là yếu tố quyết định đến quá trình tổ chức sản xuất và phân phối sản phẩm có được từ kết quả của việc sản xuất đó. Do vậy, chế độ sở hữu có liên quan đến xu hướng phát triển của đất nước (tư bản chủ nghĩa – TBCN hay xã hội chủ nghĩa – XHCN), liên quan đến tính hiệu quả trong quá trình quản lý, khai thác và sử dụng tài sản của đất nước, là vấn đề không thể né tránh đối với các nhà chính trị, các nhà kinh tế và các luật gia trong giai đoạn hiện nay.
 
1. Chế độ sở hữu trong các hiến pháp Việt Nam ở các thời kỳ phát triển
 
Chế độ sở hữu mà đặc biệt là sở hữu đất đai và các tư liệu sản xuất quan trọng khác ở Việt Nam luôn được ghi nhận trong các Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992. Tuy nhiên, do tình hình lịch sử và hoàn cảnh đất nước nên trong mỗi giai đoạn lịch sử, hiến pháp và pháp luật Việt Nam quy định chủ thể, phạm vi, nội dung của chế độ sở hữu tài sản không giống nhau và cơ chế thực hiện, bảo vệ các quyền sở hữu cũng khác nhau. Lịch sử lập hiến Việt Nam cho thấy, mỗi khi chế độ sở hữu ở Việt Nam thay đổi thì đòi hỏi phải sửa đổi hiến pháp.
 
Hiến pháp năm 1946. Việt Nam là nước nông nghiệp với tỷ lệ khá lớn dân cư sống nhờ vào ruộng đất nên chế độ sở hữu ruộng đất là vô cùng quan trọng. Dưới chế độ phong kiến thực dân, ruộng đất tập trung trong tay địa chủ phong kiến, nông dân phải cày thuê cuốc mướn, cuộc sống vô cùng khó khăn nên sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam thành công, Nhà nước Việt Nam đã ban hành Hiến pháp 1946 để quy định, bảo hộ các quyền công dân của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà mà quan trọng hơn cả là quyền sở hữu tài sản và các quyền tài sản khác để thực hiện khẩu hiệu “Người cày có ruộng”. Bởi, quyền sở hữu là tiền đề phát sinh các quyền kinh tế, dân sự khác như quyền kinh doanh, quyền tham gia các giao dịch, quyền thừa kế tài sản… Nhà nước cho phép tự do mua bán, chuyển nhượng đất đai, tạo điều kiện cho các chủ thể khai thác, sử dụng đất đai có hiệu quả. Điều 12 Hiến pháp 1946 ghi: “Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm”. Tài sản là quyền lợi mà thần thánh không thể xâm phạm được, trừ khi có những nhu cầu xã hội cần thiết và với điều kiện được bồi thường một cách thoả đáng. Quy định này của Hiến pháp 1946 thật sự dân chủ, nhân quyền, xuất phát từ thực tiễn, yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng khi đó là: “bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ”1.
 
Hiến pháp năm 1959. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, miền Bắc Việt Nam được giải phóng, nhân dân miền Bắc xây dựng hậu phương vững mạnh để chi viện sức người, sức của cho đồng bào miền Nam tiếp tục thực hiện cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam. Để tạo cơ sở pháp lý cho các chủ thể trong các thành phần kinh tế khác nhau an tâm lao động sản xuất, Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu của người lao động riêng lẻ và quyền sở hữu của các nhà tư bản đối với các tư liệu sản xuất họ đang được phép sản xuất kinh doanh. Điều 11 Hiến pháp 1959 quy định: “Ở nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trong thời kỳ quá độ, các hình thức sở hữu chủ yếu về tư liệu sản xuất hiện nay là: hình thức sở hữu của Nhà nước tức là của toàn dân, hình thức sở hữu của hợp tác xã tức là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động, hình thức sở hữu của người lao động riêng lẻ, và hình thức sở hữu của nhà tư sản dân tộc”.
 
Khi cách mạng Việt Nam chuyển sang hình thế mới: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, tiến tới thống nhất đất nước, thì Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo hướng XHCN. Do vậy, Điều 12 Hiến pháp 1959 quy định: “Các hầm mỏ, sông ngòi và những rừng cây, đất hoang, tài nguyên khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước, đều thuộc quyền sở hữu của toàn dân”. Đối với các thành phần kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công, những người lao động riêng lẻ khác, thì Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện thành lập hợp tác xã, các gia đình đưa ruộng đất, tư liệu sản xuất của riêng vào hợp tác xã để xây dựng và phát triển kinh tế tập thể dựa trên hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động. Đối với thành phần kinh tế tư bản, thì Nhà nước tiến hành công tư hợp doanh, dần dần đưa họ phát triển kinh tế theo con đường chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ này, xã hội có nhiều thành kiến đối với những người làm ăn riêng lẻ, tuy vậy, pháp luật vẫn bảo hộ quyền sở hữu đối với các tư liệu sản xuất và tài sản của họ, cho phép họ để lại thừa kế. Các Điều 14, 15, 16, 18, 19 Hiến pháp 1959 quy định: Nhà nước Việt Nam chiếu theo pháp luật bảo hộ quyền sở hữu đất đai, các tư liệu sản xuất khác, của cải, thu nhập hợp pháp, quyền về thừa kế tài sản tư hữu của nông dân, người làm nghề thủ công, người lao động riêng lẻ, nhà tư sản dân tộc, công dân…
 
Hiến pháp 1959 xác định chế độ sở hữu, thành phần kinh tế, nguyên tắc quản lý nền kinh tế là chính sách kinh tế của Nhà nước XHCN nhưng phù hợp với điều kiện đất nước có chiến tranh. Chế độ công hữu về tư liệu sản xuất được xác lập cùng với nó là quan hệ sản xuất XHCN. Vì vậy, Hiến pháp 1959 thừa nhận sự tồn tại của bốn hình thức sở hữu chủ yếu về tư liệu sản xuất, bao gồm sở hữu toàn dân, sở hữu hợp tác xã, sở hữu của những người lao động riêng lẻ và sở hữu của nhà tư sản dân tộc. Nhà nước chỉ trưng mua, trưng dụng, trưng thu khi cần thiết vì lợi ích chung nhưng có bồi thường thích đáng. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, nền kinh tế Việt Nam phát triển theo cơ chế bao cấp, tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng được phân phối theo kế hoạch, cho nên các giao lưu dân sự không phát triển, vì vậy cá nhân có quyền sở hữu đối với tư liệu tiêu dùng để phục vụ nhu cầu sinh hoạt.
 
Hiến pháp năm 1980. Sau khi đất nước thống nhất, năm 1980, Nhà nước ban hành Hiến pháp mới. Điều 19 Hiến pháp 1980 quy định: “Đất đai, rừng núi, sông hồ, hầm mỏ, tài nguyên thiên nhiên trong lòng đất, ở vùng biển và thềm lục địa, các xí nghiệp công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, thương nghiệp quốc doanh; ngân hàng và tổ chức bảo hiểm; công trình phục vụ lợi ích công cộng; hệ thống đường sắt, đường bộ, đường sông, đường biển, đường không; đê điều và công trình thuỷ lợi quan trọng; cơ sở phục vụ quốc phòng; hệ thống thông tin liên lạc, phát thanh, truyền hình, điện ảnh; cơ sở nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, cơ sở văn hoá và xã hội cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước – đều thuộc sở hữu toàn dân”.
 
Nếu như Hiến pháp 1959 ghi nhận sở hữu riêng là quyền cơ bản của công dân thì ở Hiến pháp 1980, nó không còn được thừa nhận. Điều 27 của Hiến pháp chỉ quy định: “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu của công dân về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, những công cụ sản xuất dùng trong những trường hợp được phép lao động riêng lẻ. Pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công dân”. Với nhận thức còn chưa khoa học về thời kỳ quá độ của Việt Nam ở thời điểm đó, Nhà nước không thừa nhận sự tồn tại của sở hữu tư nhân và các thành phần kinh tế tương ứng, coi nó là kinh tế phi XHCN và tìm cách thủ tiêu. Tư duy làm chủ tập thể, bao cấp bao trùm hầu hết các quy định của Hiến pháp 1980, do vậy, tuy Hiến pháp quy định cho công dân có rất nhiều quyền, nhưng trên thực tế chỉ có một số quyền được thực hiện đối với một số người. Chẳng hạn, quyền có nhà ở chỉ thực hiện được với công dân là cán bộ, công nhân viên nhà nước, nhưng cũng không phải là tất cả.
 
Hiến pháp quy định cá nhân, hộ gia đình không có quyền sở hữu về đất đai nhưng có quyền sử dụng khai thác đất đai, có quyền chuyển nhượng tài sản trên đất. Nếu trên đất không có tài sản thì không có quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất, kể cả việc thừa kế quyền sử dụng đất. Trường hợp người được giao đất chết thì quyền sử dụng đất được chuyển cho người đang trực tiếp sử dụng cùng người đã chết tiếp tục sử dụng. Thời kỳ này, Nhà nước giao đất cho hợp tác xã và các tập đoàn sản xuất, cho nên cá nhân, hộ gia đình không có đất để canh tác, vì vậy các giao lưu dân sự về đất đai bị cấm. Mặt khác, do chính sách cải tạo XHCN ở miền Nam là đưa cá nhân, hộ gia đình làm ăn riêng lẻ vào tập đoàn sản xuất và hợp tác xã, tài sản mà các hộ gia đình có quyền sở hữu bị hạn chế, chủ yếu là tư liệu tiêu dùng, vì vậy, các giao dịch dân sự thời kỳ này chủ yếu giải quyết những nhu cầu thiết yếu hàng ngày của cá nhân, gia đình.
 
Hiến pháp năm 1992. Hiến pháp năm 1980 là Hiến pháp của thời kỳ cải tạo XHCN ở miền Nam và xây dựng nền tảng cho chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước, vì vậy, không còn phù hợp với công cuộc đổi mới, cho nên Nhà nước đã ban hành Hiến pháp mới năm 1992. Hiến pháp năm 1992 là hiến pháp của thời kỳ đổi mới, với đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN nên chế độ sở hữu lại có sự thay đổi. Điều 15 Hiến pháp 1992 quy định: “Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng”.
 
Để thực hiện chính sách dân giàu, nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân, Nhà nước Việt Nam đã tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát huy mọi tiềm năng của mình để phát triển dưới nhiều hình thức khác nhau. Điều này đã được quy định trong Điều 16 Hiến pháp 1992 (sửa đổi 2001): “Tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế được sản xuất, kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm; cùng phát triển lâu dài, hợp tác, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật”.
 
Việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN buộc phải thừa nhận cho công dân quyền tự do kinh doanh, tạo cơ sở pháp lý thu hút sự tham gia của công dân vào các hoạt động kinh tế, khuyến khích công dân làm giàu chính đáng trên mảnh đất của mình bằng khả năng của mỗi người và có sự tác động từ phía Nhà nước và xã hội. Công dân được Nhà nước tạo khả năng để tham gia vào các hoạt động kinh tế như được thành lập doanh nghiệp mà không bị hạn chế về quy mô và mức độ; thành lập các tổ sản xuất, tổ hợp tác, xưởng, cửa hàng… với qui mô tùy theo điều kiện và khả năng của mỗi người; được thuê mướn lao động theo hợp đồng thỏa thuận giữa chủ và người làm thuê; được Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu với tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt, vốn và các tài sản khác trong doanh nghiệp; được vay vốn ngân hàng phục vụ cho mục đích kinh doanh; được bảo hộ quyền thừa kế; được liên doanh liên kết với các tổ chức trong và ngoài nước; được kinh doanh trong những ngành nghề, lĩnh vực mà pháp luật không cấm…
 
Hiến pháp 1992 khôi phục lại quyền sở hữu của công dân nhưng được thể hiện ở một tinh thần mới, phù hợp với chính sách kinh tế và quy định về quyền tự do kinh doanh của công dân “Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác; đối với đất được Nhà nước giao sử dụng thì theo quy định tại Điều 17 và 18. Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân” (Điều 58). Như vậy, phạm vi quyền sở hữu của công dân được mở rộng, nhất là quyền sở hữu đối với tư liệu sản xuất, điều mà Hiến pháp 1980 đã không thừa nhận.
 
Trong các quyền tài sản của cá nhân, quyền sử dụng đất đóng vai trò quan trọng nhất, là tài sản lớn của đa số các hộ nông dân. Nhà nước đã cho phép cá nhân, hộ gia đình thực hiện các quyền khai thác, sử dụng, chuyển nhượng, cho thuê, đổi, thừa kế quyền sử dụng đất. Quyền sử dụng đất được Nhà nước thừa nhận là hàng hoá có giá trị kinh tế đặc biệt quan trọng của cá nhân, hộ gia đình và các chủ thể khác. Khi không còn nhu cầu sử dụng đất, thì cá nhân, hộ gia đình có quyền chuyển nhượng, cho tặng, để lại thừa kế, vì thế, họ an tâm lao động sản xuất trên mảnh đất của mình được Nhà nước giao hoặc được chuyển nhượng. Ngoài quyền sử dụng đất thì quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật của công dân cũng được thừa nhận. Công dân có quyền tham gia vào nhiều loại hình kinh doanh khác nhau, do vậy, ngoài tư liệu sản xuất thì việc đóng góp vốn dưới hình thức tiền, vàng, mua cổ phiếu, trái phiếu… cũng nằm trong phạm vi quyền sở hữu của công dân. Điều đó dẫn đến quan điểm về thu nhập hợp pháp cũng được mở rộng. Thu nhập của người lao động hiện nay không chỉ có đồng lương mà còn tiền thưởng, lợi tức thu được từ việc kinh doanh trái phiếu, cổ phiếu, lợi nhuận thông qua các giao dịch, hợp đồng…
 
Tuy nhiên, nếu so sánh với Hiến pháp 1946 thì phạm vi quyền sở hữu của công dân hiện nay bị thu hẹp (Nhà nước chỉ công nhận quyền sở hữu riêng chứ không thừa nhận quyền tư hữu tài sản). Điều này có tính hợp lý vì mặc dù Nhà nước thừa nhận xây dựng nền kinh tế thị trường nhưng theo định hướng XHCN, nên kinh tế nhà nước dựa trên chế độ sở hữu toàn dân vẫn được củng cố và phát triển, nhất là trong các ngành và lĩnh vực then chốt, giữ vai trò chủ đạo và ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
 
Tài sản hợp pháp thuộc hình thức sở hữu tư nhân không bị hạn chế về số lượng, giá trị, được bảo vệ bằng nhiều biện pháp khác nhau như có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu phải trả lại tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại (Điều 255 Bộ luật Dân sự). Tuy nhiên, “Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc hình thức sở hữu tư nhân không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”. Cá nhân không được sở hữu tài sản mà pháp luật quy định không thuộc sở hữu tư nhân, đó là các khách thể thuộc quyền sở hữu nhà nước được quy định tại Điều 17 Hiến pháp 1992. Hiến pháp thừa nhận công dân có quyền xây dựng nhà ở và cho thuê nhà, bán nhà theo giá cả thỏa thuận giữa các bên, quyền lợi của người thuê nhà, người có nhà cho thuê, bên mua và bên bán được bảo hộ theo pháp luật.= Việc thừa nhận sự tồn tại lâu dài của chế độ sở hữu tư nhân, thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân, quyền tự do kinh doanh của công dân, sự ra đời của các loại hình bảo hiểm, các loại thị trường… là các biện pháp mà Nhà nước thực hiện thời gian qua đã góp phần quan trọng vào việc tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, khuyến khích công dân làm giàu chính đáng.
 
2. Xu hướng phát triển chế độ sở hữu ở Việt Nam hiện nay
 
Sở hữu là vấn đề quan trọng, là cái để phân biệt các chế độ chính trị xã hội khác nhau (đặc biệt là giữa chế độ TBCN và XHCN), là một động lực thúc đẩy năng xuất lao động, hiệu quả sản xuất và kinh doanh, nên là vấn đề không thể né tránh trong hiến pháp và pháp luật. Việt Nam đã theo đuổi và đã mất rất nhiều công sức để tiến hành công hữu, thậm chí đã phải cưỡng bức người dân để công hữu tư liệu sản xuất nhằm mau chóng xây dựng chủ nghĩa xã hội, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, tiến tới chủ nghĩa cộng sản. Song đáng tiếc là do việc công hữu được tiến hành ồ ạt, thậm chí bất chấp cả hiệu quả kinh tế – xã hội, nên chế độ công hữu cao độ trong giai đoạn vừa qua ở Việt Nam nói riêng, ở các nước XHCN nói chung đã chưa phát huy được tác dụng của mình trong thực tế sản xuất, kinh doanh và quản lý, bảo vệ tài sản XHCN. Điều này đã dẫn đến Nhà nước XHCN Việt Nam buộc phải đổi mới, trong đó có đổi mới kinh tế, thay đổi nội dung, cách quản lý, khai thác chế độ công hữu về tài sản. Những năm gần đây ở Việt Nam đang diễn ra xu hướng cá thể hoá chế độ sở hữu dưới dạng “cổ phần hoá”, những tài sản của Nhà nước thuộc sở hữu toàn dân đang dần dần có chủ sở hữu cụ thể. Nếu trước đây tài sản của vợ, chồng được coi là tài sản chung thì bây giờ đã tồn tại chế độ sở hữu chung của vợ chồng và sở hữu riêng của vợ hoặc chồng… Chế độ sở hữu ở Việt Nam hiện nay chưa thật sự ổn định, còn nhiều vấn đề đang đặt ra cần phải được giải quyết trong hiện tại và tương lai.
 
Như vậy, có thể nói, chúng ta chưa tạo ra được cơ chế kinh tế – chính trị tối ưu để khai thác chế độ công hữu nhằm phục vụ lợi ích của Nhà nước và nhân dân. Điều này thể hiện ở sự lúng túng, kém hiệu quả trong việc quản lý, sử dụng, khai thác tài sản của Nhà nước thuộc sở hữu toàn dân. Đây là một trong những vấn đề quan trọng đang đặt ra cho các nhà kinh tế và pháp lý phải giải quyết. Hiến pháp và pháp luật phải quy định vấn đề sở hữu như thế nào để tránh được tình trạng “của chung tức là không của ai”, nên mạnh ai người đó chiếm, trách nhiệm bảo vệ và khai thác rất hạn chế, phải làm sao để chế độ sở hữu thúc đẩy và góp phần tích cực vào việc thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
 
Chúng tôi cho rằng, khi tính tự giác của con người chưa đạt được trình độ như trong xã hội cộng sản, thì chế độ sở hữu hỗn hợp vẫn cần được duy trì như là một yếu tố kích thích nhằm nâng cao năng xuất lao động và hiệu quả kinh tế trong sản xuất và tiêu dùng để thực hiện việc quản lý và khai thác hiệu quả hơn các nguồn tài sản trong xã hội. Bởi quy định sự tồn tại của chế độ sở hữu nào thì trước hết cũng phải thúc đẩy được việc nâng cao năng xuất lao động, khai thác và sử dụng có hiệu quả tài sản trong xã hội, trên cơ sở đó mới từng bước thực hiện công bằng, dân chủ xã hội. Khi năng xuất lao động chưa cao, của cải xã hội được làm ra chưa nhiều, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, mức sống không cao, thì các vấn đề công bằng, dân chủ dù có được nói đến nhiều thì cũng chỉ mang tính hình thức. Cũng cần chú ý là nền kinh tế hiện nay Việt Nam đang theo đuổi là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nên dù có tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nhưng thành phần kinh tế quốc doanh dựa trên chế độ sở hữu toàn dân vẫn phải chiếm thị phần lớn hơn, chế độ sở hữu toàn dân phải là nền tảng. Như vậy, có thể khẳng định rằng, chế độ sở hữu ở Việt Nam hiện nay vẫn chưa ổn định, vẫn đang có sự chuyển dịch về thị phần giữa các thành phần kinh tế. Do vậy, vấn đề quan trọng mà các nhà làm luật phải đưa ra được là kinh tế nhà nước thuộc chế độ sở hữu toàn dân sẽ chiếm thị phần ít nhất là bao nhiêu trong nền kinh tế quốc dân, vai trò chủ đạo của nó thể hiện ở chỗ nào và cần có những giải pháp hữu hiệu, thiết thực gì để nâng cao hiệu quả của chế độ công hữu. Đây là vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc củng cố niềm tin của nhân dân vào chủ nghĩa xã hội về cả lý luận và hiện thực ở Việt Nam.
 
Vấn đề tiếp theo mà hiến pháp và pháp luật cần đề cập là vấn đề tôn trọng và bảo vệ tài sản, lợi ích công (tài sản XHCN, lợi ích nhà nước) với tài sản, lợi ích của cá nhân, của tập thể như nhau, không phân biệt đối xử. Như trên đã nêu, khi chưa thể thực hiện được chế độ công hữu một cách hiệu quả đối với các tư liệu sản xuất và tài sản trong xã hội thì buộc phải chấp nhận thực tại phù hợp, phải bảo vệ thực tại đó dựa trên những cơ sở pháp lý nhất định, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế bình đẳng và cạnh tranh trên cơ sở pháp luật. Việc tôn trọng và giải quyết xung đột giữa sở hữu công và sở hữu tư, giữa lợi ích công và lợi ích tư cần được thể hiện rõ hơn trong Hiến pháp và pháp luật ở nước ta.
 
Quá trình nhà nước hoá, xã hội hoá tư liệu sản xuất chỉ nên tiến hành từng bước phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất đất nước và sự phát triển, hoàn thiện, nhất là về mặt nhận thức của những “con người XHCN”. Do vậy, việc duy trì sự tồn tại của các chế độ sở hữu nào, việc công hữu những tư liệu sản xuất nào, đến đâu, thiết nghĩ các nhà lãnh đạo, quản lý chỉ nên định hướng, nêu vấn đề, còn người quyết định cuối cùng phải là nhân dân. Hy vọng rằng, với quá trình dân chủ hoá trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội như hiện nay, thì những gì thay đổi quan trọng trong hiến pháp, đặc biệt là vấn đề sở hữu phải xuất phát từ thực tiễn sản xuất, quản lý, khai thác tài sản trong xã hội và phải do nhân dân bàn bạc, quyết định.
 
Chú thích:
 
(1) Hiến pháp Việt Nam (năm 1946,1959, 1980, 1992 và Nghị quyết về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 7.
 
SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP ĐIỆN TỬ
 
Trích dẫn từ: http://www.nclp.org.vn/nha_nuoc_va_phap_luat/phap-luat/che-111o-so-huu-o-viet-nam
TIN TỨC LIÊN QUAN

Danh mục chính

Tin tức nổi bật

Thống kê truy cập

Đang xem: 10 lượt

Tổng số đã xem: 1425590 lượt

090 574 6666